Lịch sử
Kịch Kabuki ra đời vào đầu thế kỷ 17. Loại hình nghệ thuật này bắt đầu từ một màn trình diễn có điệu múa lạ mắt của một đồng cốt tại đền thờ Izumo Taisho, tên là Okuni. Kabuki nhanh chóng chiếm được cảm tình của khán giả, ban đầu người biểu diễn chính trong kabuki là phụ nữ, tuy nhiên do các ảnh hưởng xấu tới thuần phong mỹ tục đi kèm chính phủ đã cấm nữ giới biểu. Lúc này, cánh đàn ông tiếp tịc biểu diễn vì Kabuki vẫn rất nổi tiếng và được yêu thích. Dù vậy, các vụ ẩu đã và tệ nạn xấu vẫn tiếp tục xảy ra khiến chính quyền một lần nữa ban lệnh cấm. Cuối cùng,các kabuki nam trưởng thành (những người đã cạo phần mái tóc) bắt đầu thay thế các diễn viên nam trẻ và phải đảm bảo với chính quyền rằng trong các vở kịch không phô bày thân thể, rằng họ là những nghệ sĩ nghiêm túc và không dính líu đến mại dâm.
Vào thời gian đó, vì chính quyền cấm diễn viên nữ, tầm quan trọng của những nghệ sĩ nam đóng vai nữ, gọi là onnagata, dần dần tăng lên. Khi diễn vai nữ, nghệ sĩ Kabuki phải tuân thủ những qui tắc bắt buộc như: đầu gối hơi chùn xuống khi di chuyển, động tác đi lại nhẹ nhàng, nét mặt e ấp của nữ giới; động tác tay và cả giọng nói dịu dàng.
Kể từ khi xuất hiện, Kabuki đã có lịch sử 400 tuổi. Kabuki được chia thành làm hai thể loại kịch chính. Đầu tiên là Jidaimono hay còn gọi là kịch lịch sử. Các vở kịch Jidaimono thường đề cập đến các sự kiện lịch sử quan trọng trước thời Edo của Nhật Bản.Thể loại kịch thứ hai là Sewamono. Sewamono mô tả cuộc sống của thị dân và nông dân trong thời Edo. Chủ đề của Sewamono là chuyện gia đình hoặc tình cảm lãng mạn.
Bên cạnh kỹ năng diễn xuất, vũ đạo, các nghệ sĩ Kabuki cần phải thuần thục kĩ năng trong điểm. Có ba dạng nhân vật chính trong Kabuki: Tachiyaku – nhân vật nam trẻ đại diện cho người tốt, Katakiyaku – kẻ xấu, chuyên làm điều ác và Onnagata – các nhân vật nữ. Mội dạng nhân vật sẽ có cách trang điểm khác nhau để làm nổi bật lên từng đặc trưng trong tính cách.
Ngoài 3 dạng nhân vật trên, Kabuki còn có một dạng nhân vật tượng trưng cho các anh hùng, dũng tướng gọi là Kumadori. Nhân vật này được đặc trưng bời cách trang điểm với đường viền đỏ trên mặt biểu thị cho đức hạnh và sức mạnh.
Việc hóa trang là một trong những khâu quan trọng của Kabuki và được các nghệ sĩ tự thực hiện. Cách hóa trang giúp người xem nhận biết bản chất của nhân vật như tốt và xấu. Ngoài ra, trong Kabuki còn có một số kiểu hóa trang như mặt xanh thể hiện cho các linh hồn, mặt nâu hay xám thể hiện vai diễn con vật, ma quái. Những nét vẽ trên mặt diễn viên giúp thể hiện tâm trạng của nhân vật tốt hơn, đặc biệt là những cảm xúc mãnh liệt như tức giận hay đau khổ.
Nét đặc trưng của Kabuki là Mie, điệu bộ của nhân vật. Một diễn viên Kabuki tài năng thể hiện qua cách anh ta diễn đạt tính cách nhân vật thong qua điệu bộ ấn tượng. Điệu bộ trên thể hiện cảm xúc mãnh liệt của nhân vật, thường được dùng để lột tả sự tức giận nhưng cố kìm nén. Những cảnh diễn Mie luôn là cảnh diễn cao trào của vở kịch và được khán giả yêu thích.
Từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Kabuki đã được đưa đi trình diễn tại nhiều nước Châu Âu, châu Á và Mỹ… Hiện nay hàng năm, có rất nhiều cuộc hội thảo về nghệ thuật kịch Kabuki được tổ chức, thậm chí, tại nhiều nước phương Tây, một số tổ chức chuyên nghiên cứu về Kabuki đã ra đời.